Chữ hiếu từ Đạo Phật đi vào đời sống

0
212

Trong các sinh hoạt lễ hội truyền thống của Phật giáo Đại thừa, thì đại lễ Vu Lan mang nhiều ý nghĩa trọng đại: Vừa thiêng liêng cao tột trong đời sống tâm linh của cộng đồng Phật giáo, lại vừa mang chất liệu đạo đức và tình cảm gần gũi thân thương thấm sâu trong đời sống dân gian, chan hòa trong đời sống mỗi gia đình.

Bàn về chữ hiếu

Như chúng ta đã biết, hiếu đạo vốn là một đạo lý có từ ngàn đời, nó tồn tại và thăng hoa trong thế giới con người, vì từ muôn ngàn đời nay, tình yêu thương của cha mẹ dành cho con cái không những không hề vơi cạn mà con lung linh dịu ngọt, êm đềm bay bỗng theo dòng chảy thời gian để dưỡng nuôi những mầm sống được lớn khôn và trở thành người hữu ích. Đối với những dân tộc có hàng ngàn năm văn hiến và truyền thống đạo đức lâu đời như dân tộc Việt Nam chúng ta, thì những tấm gương hiếu đạo trong đời sống, qua nhiều thời đại là rất nhiều không thể nào tính đếm nỗi. Chẳng hạn, tấm gương hiếu đạo của vua Trần Anh Tông đối với phụ hoàng hay của vua Tự Đức đối với mẫu hậu được nhân dân ta xem là hai tấm gương tiêu biểu về tinh thần hiếu thảo trong chốn hoàng cung.

Đối với người Việt Nam chúng ta, thì việc báo hiếu chính là bổn phận thiêng liêng của tất cả mọi người. Trong kinh Thi, công ơn của người mẹ được trình bày tuần tự như sau: “Sinh – Cúc – Phủ – Dục – Súc – Trưởng – Cố – Phục – Phúc”, nghĩa là: “Sinh nở – Nâng đỡ – Vỗ về – Dạy dỗ – Bú mớm – Nuôi dưỡng – Chăm sóc – Nuông chiều – Che chở”. Đây là 9 đức hạnh hy sinh của người mẹ kể từ khi chúng ta vừa mới chào đời cho đến trưởng thành mà tất cả chúng ta đều phải chịu ơn và đều phải có bổn phận đền ơn đáp nghĩa.

Trong đời sống nhân gian, phương cách báo hiếu cũng đã được đức Không Tử đề ra: “Hiếu tử chi sự thân, cư tắc trí kỳ kính, dưỡng tắc trí kỳ lạc, bệnh tắc trí kỳ ưu, tang tắc trí kỳ ai, tế tắc trí kỳ nghiêm”, điều này hàm ý, trong cách ăn ở cư xử phải hết lòng cung kính, lúc nuôi dưỡng cha mẹ phải nhiệt tâm và vui vẻ, lúc cha mẹ đau ốm phải hết lòng lo lắng thuốc thang chữa chạy, khi ma chay thì phải hết lòng thương xót, khi cúng tế tang lễ thì phải trang nghiêm.

Trong Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân, Đức Phật đã nêu ra 10 công đức sâu dày của người mẹ như sau:

                                  1.Chín tháng cưu mang khó nhọc.

                                  2.Sợ hãi đau đớn khi sinh.

                                  3.Nuôi con cam đành cực khổ.

                                  4.Nuốt cay, mớm ngọt cho con.

                                  5.Chịu ướt, nhường ráo con nằm.

                                  6.Nhai cơm sú nước cho con.

                                  7.Vui giặt đồ dơ cho con.

                                  8.Thường nhớ khi con xa nhà.

                                  9.Có thể tạo tội vì con.

                                 10.Nhịn đói cho con được no”.

Đây là 10 công đức của người mẹ, mà bất cứ ai trong chúng ta cũng đều đã thọ nhận, cũng đều phải chịu ơn, thế nhưng có điều là chúng ta ít khi tưởng nhớ đến sự hy sinh lớn lao và thầm lặng của người mẹ, mặc dù trong số chúng ta đã có rất nhiều người trưởng thành và không ít người thành công trên đường công danh. Do vậy khi đọc được những lời vàng ngọc từ kim khẩu Đức Phật nói về thâm ân sâu nặng của người mẹ, dường như tất cả chúng ta đều không khỏi chạnh lòng bồi hồi xúc động, đồng thời tâm nguyện mong muốn thể hiện ngay một việc gì đó thật có ý nghĩa đối với hai đấng song thân và đặc biệt là người mẹ.

Trong 10 công đức sâu dày của người mẹ mà Đức Phật đã nêu ra trong Kinh Đại Báo Phụ Mẫu Trọng Ân, ngoài những điều như “Chín tháng cưu mang khó nhọc”, “Sợ hãi đau đớn khi sinh”, “Nuôi con cam đành cực khổ”, “Nuốt cay, mớm ngọt cho con” … thì đặc biệt ở điều thứ chín là “Có thể tạo tội vì con”. Chúng ta nhận thấy, Đức Phật không đơn thuần chỉ nêu ra công ơn của người mẹ như những chi tiết khác, mà ở đó là tâm lượng vị tha quảng đại của “Bồ tát”, là sự hy sinh lớn lao vô cùng, ở đó là tình thương không ngằn mé của người mẹ đã vì sự sống của con mà chấp nhận tạo nên mọi tội lỗi. Chúng tôi nghĩ rằng, điều này dường như chưa thấy ở một tôn giáo nào đề cập đến, chưa có một nền đạo lý nào chú tâm đến. Tạo tội cho mình tức là tạo ác nghiệp cho mình, tức là phải chịu khổ vĩnh kiếp trầm luân mà vẫn vui vẻ thản nhiên chấp nhận, thậm chí còn cảm thấy được hạnh phúc khi tạo tội vì con. Than ôi! Tất cả cũng chỉ vì xuất phát từ tình yêu thương con vô bờ bến mà đấng sinh thành đã dành cho con cái.

Đây là vấn đề thực sự trọng yếu mà mỗi một người con Phật chúng ta không thể thờ ơ hay xem nhẹ. Vì điều này sẽ ảnh hưởng không chỉ đời này cho người mẹ mà còn cho đời đời kiếp kiếp về sau, vì thương con mà những quả báo khốn khổ này người mẹ phải gánh chịu toàn bộ. Có thể nói đây là sự hy sinh hết sức vĩ đại, mà mỗi một người con như chúng ta không thể nào đáp đền nỗi, nếu như chúng ta không có duyên với Phật pháp, nếu như chúng ta không vâng theo lời Phật dạy.

Trong Kinh Tâm Địa Quán, Đức Phật đã đề cao công ơn cha mẹ cao như núi Thái, sâu như biển Đông:

                                       Ân từ phụ cao dường núi Thái

                                       Đức mẫu thân sâu tợ biển Đông

                                       Dù cho phụng hiến trọn đời

                                       Cũng không trả nỗi công ơn sinh thành.

Qua đó chúng ta nhận thấy rằng, Đức Phật đã hình tượng hóa ân đức sinh thành của cha mẹ như núi Thái, như biển Đông, và cuối cùng Ngài cảnh báo cho tất cả chúng ta biết rằng, dù trọn một đời này chúng ta dâng hiến cung phụng tất cả những gì mà chúng ta đang có thì cũng chưa chắc là có thể đền đáp nỗi công ơn trời biển của cha mẹ.

Đặc biệt trong Tương Ưng Bộ Kinh, Đức Phật của chúng ta đã đưa ra một ẩn dụ so sánh rất ấn tượng khi nói về ân đức sinh thành và suối nguồn yêu thương của người mẹ đã dành cho con cái: “Sữa của mẹ mà chúng ta đã thọ nhận so với nước của bốn đại dương, bên nào nhiều hơn?”. Và cũng thật đầy bất ngờ, khi chúng ta được biết thêm một sự thật về những gì mà chúng ta đã thọ nhận từ tình yêu thiêng liêng của người mẹ trong vô số kiếp từ trước cho đến trở lại đây. Đó cũng là một điều hiển nhiên mà chúng ta đã không thể nào ngờ được, nếu như chúng ta chưa từng nghe Đức Phật chỉ dạy: “ Này các Thầy Tỳ kheo! Trong lục đạo luân hồi, sữa mẹ mà các Thầy đã thọ nhận còn nhiều hơn là nước trong bốn đại dương”.

Bây giờ chúng ta hãy cùng nhau tiếp tục lắng lòng đón nhận những lời vàng ngọc mà chính đức Từ Phụ của chúng ta nói về công ơn sâu dày của cha mẹ trong Kinh Tăng Nhất A Hàm: “Này các Thầy Tỳ kheo! Trong đời này, nếu có người nào nâng mẹ đặt lên bên vai phải, nâng cha đặt lên bên vai trái, cõng cha mẹ đi xa ngàn dặm, lại phụng dưỡng cha mẹ bằng các loại vật thực quí hiếm, ngon lành, chăn nệm và thuốc thang đầy đủ, dùng hương trầm và dầu thơm xoa bóp thân thể cha mẹ cho bớt mỏi mệt, kéo tay chân cho giãn gân cốt, tắm rửa nước ấm khi trời lạnh, nước mát khi trời nóng, thậm chí cha mẹ có tiểu tiện, đại tiện trên đôi vai của mình … thì cũng chưa hẳn là chúng ta đã trả được thâm ân sâu nặng của cha mẹ”. Đức Phật lại dạy rằng: “Các Thầy phải hiểu rằng, ân đức sinh thành của cha mẹ sâu nặng lắm, bồng ẳm dưỡng nuôi, tìm đủ mọi cách để ta khôn lớn trưởng thành … vì thế mà ơn này khó trả. Này các Thầy Tỳ kheo! Có hai việc có thể làm cho hạng người phàm phu được công đức lớn. Đó là phụng dưỡng cha và phụng dưỡng mẹ”.

Ngày hội mùa Vu Lan

Theo truyền thống, chánh lễ Vu Lan hằng năm, đúng ra phải được tổ chức vào ngày chư Tăng Tự tứ (rằm tháng bảy), nhưng trên thực tế, lễ Vu Lan tại nước ta lại diễn ra trong rất nhiều ngày, việc tổ chức lễ Vu Lan ở hầu hết các chùa đều diễn ra chưa đồng bộ, chưa thống nhất thời gian, lý do đơn giản là nếu như đúng ngày rằm tháng bảy, chư Tăng Ni tập trung hết về một vài chùa lớn thì vô số ngôi chùa khác sẽ thiếu vắng hình bóng Tăng Ni và như vậy buổi lễ Vu Lan sẽ không đáp ứng trọn vẹn được tinh thần cúng dường chư Tăng nhân ngày Tự tứ. Đây cũng là một phần nguyên do mà người ta hay nói “rằm tháng bảy” là “mùa” Vu Lan báo hiếu, chứ không giới hạn là “ngày” Vu Lan báo hiếu.

Từ tấm lòng hiếu đạo của người con Phật và từ oai đức của chư Tăng nhân ngày Tự tứ, mùa Vu Lan báo hiếu đã được hình thành trên tinh thần hóa giải nghiệp lực, cứu khổ ban vui, khơi nguồn hiếu đạo trong cộng đồng Phật giáo và cả chốn nhân gian. Từ đó mùa Vu Lan báo hiếu đã trở thành chuổi ngày đại lễ của những người con chí hiếu và cũng là cơ hội để những người con Phật thể hiện tấm lòng hiếu đạo của mình.

Từ một ngày lễ trong vô số ngày lễ vía của Phật giáo, lễ Vu-Lan mặc nhiên đã được cộng đồng xã hội quan tâm và ngầm chấp nhận đó là ngày lễ báo hiếu chung cho cả dân tộc. Trước hết có thể nói, đây là điều rất đáng tự hào của Phật giáo, vì Phật giáo vốn không phô trương hay quảng bá hình ảnh, thế nhưng mạch sống đạo đức và tâm linh của Phật giáo đã thấm sâu một cách chắc thật trong tâm tư tình cảm của mỗi một người dân Việt. Thật ra, điều này cũng dễ hiểu, bởi vì tất cả mọi người được sinh ra ở cõi đời này, từ một kẻ lam lũ ở miền quê hẻo lánh đến một người giàu sang quyền quí ở chốn đô thành, từ một vị giáo sư đáng kính đến một kẻ ít học ở một miền rừng núi xa xôi, thì không một ai có thể từ trên trời rơi xuống mà không do cha mẹ sinh ra, không một ai có thể lớn khôn trưởng thành mà không ở trong vòng tay nâng niu chăm sóc dưỡng nuôi của cha và mẹ, đặc biệt là không ai có thể sống đến ngày hôm nay mà không từ nguồn suối yêu thương của hai bầu sữa mẹ. (Nói đến đây chúng tôi mong quí vị hãy cùng lắng lòng sẻ chia với một vài trường hợp bất hạnh nào đó trong cuộc sống này đã không có duyen may như hầu hết chúng ta).

Như chúng ta đã biết, kiếp sống của một con người có thể gói gọn trong phạm vi một đời sống ngắn ngủi chỉ vài chục năm, người nào thọ lắm cũng chỉ “bách niên giai lão” là cùng. Thế nhưng trải qua vô số kiếp trong quĩ đạo luân hồi sanh tử thì tất cả chúng ta không thể nào thông tỏ về quá khứ lâu xa cũng như vị lai mà chúng ta vô cùng tối tăm mù mịt. Do vậy chúng ta khó có thể hình dung ra được những gì mà chúng ta đã trải qua và những gì chưa đến. Đối với bản thân mỗi chúng ta, khi nghĩ về hai đấng sinh thành, thường thì chúng ta chỉ nghĩ đến cha mẹ hiện đời, thậm chí chữ hiếu có khi còn lo không trọn, huống gì là nghĩ đến cha mẹ nhiếu đời nhiều kiếp? Có thể nói rằng đây là một điều đáng tiếc rất lớn đối với những người con Phật. Tuy nhiên, nhờ vào kinh Vu-Lan-Bồn, chúng ta được biết đến tấm gương hiếu đạo của Tôn giả Mục Kiền Liên, nhất là khi được nghe đức Phật chỉ bày phương cách báo hiếu cho cha mẹ hiện đời cũng như cha mẹ đã quá vãng, chúng ta mới thật sự thấy mình là những đứa con bất hiếu, mới thật sự xót xa vì đã chưa thể hiện được điều gì thật ý nghĩa để đền đáp thâm ân sinh thành dưỡng dục.

                Nói đến công ơn cha mẹ và phương cách báo hiếu, chắc có lẽ rằng, ngoài những nội dung chi tiết đã được đề cập đến trong kinh Vu Lan Bồn, thì chúng ta khó có thể tìm đâu ra một bản kinh nào, một áng văn nào … nêu ra công ơn trời biển của cha mẹ và phương cách báo hiếu cụ thể thiết thực đến như vậy.

Ôi! Tình yêu thương của cha mẹ đối với con cái là vô biên, là bất tận, là sâu dày, là vĩnh cữu … như vậy chúng ta có thể nào báo đáp ân sâu của hai đấng sinh thành bằng tất cả những gì mà chúng ta đang sở hữu. Thiết nghĩ, chúng ta vẫn có thể nếu như tự thân mỗi người cố gắng xây dựng một cõi Cực Lạc ngay trong tâm hồn mình, rồi chúng ta đem nguồn năng lượng hạnh phúc an lạc này chan hòa vào trong đời sống hằng ngày của cha mẹ, biến gia đình mình thành một cõi Cực Lạc hiện hữu trong cõi Ta Bà.

TT.Thích Huệ Thông